Thị trường kho lạnh dự kiến đạt 295 triệu USD năm 2025

Thị trường kho lạnh Việt Nam được dự báo tăng trưởng khoảng 12% mỗi năm và đạt quy mô thị trường 295 triệu USD năm 2025.

Đây là dự báo của bà Trang Bùi, Tổng giám đốc Cushman & Wakefield Việt Nam. Theo bà Trang, chuỗi cung ứng lạnh ở Việt Nam hiện vẫn còn khá non trẻ, manh mún, đạt khoảng 169 triệu USD năm 2019. Trong bối cảnh ngành kho lạnh bùng nổ để phục vụ nhu cầu phân phối vaccine cũng như tăng trưởng trong chế biến thủy sản và nhu cầu tiêu dùng, dự kiến quy mô thị trường này đạt mốc 295 triệu USD năm 2025, tức là tăng trưởng khoảng 12% hàng năm.

Bà Trang cũng cho rằng, kho lạnh nhìn chung tập trung thành cụm, hầu hết trong các khu công nghiệp hoặc trong các cảng sông, cảng biển. Hai nhánh chính của thị trường Việt Nam là kho lạnh thương mại và các kho lạnh tự vận hành. Thị trường kho lạnh phát triển hơn ở khu vực phía Nam, phần lớn do sự phát triển của ngành thủy sản và nông nghiệp. Trong đó, tỉnh Long An tập trung nhiều kho lạnh do được kết nối chặt chẽ với vựa nông sản là Đồng bằng sông Cửu Long và có vị trí kề cận TP HCM.

Báo cáo của Công ty dịch vụ bất động sản Cushman & Wakefield cũng nhận định, lĩnh vực kho lạnh tại Việt Nam 2 năm nay có sức hút mạnh. Nhiều nhà đầu tư đang tìm kiếm cơ hội để bước chân vào thị trường này, thông qua những dự án đầu tư mới hay mua bán sáp nhập (M&A).




Mô hình nhà kho lạnh. Ảnh: ABA

Mô hình nhà kho lạnh. Ảnh: ABA

Kho lạnh có giá thuê cao hơn nhiều so với các loại kho khô thông thường. Tùy thuộc vào loại thiết bị bảo quản lạnh (ướp lạnh hoặc tủ đông), mức phí thuê có thể dao động tăng thêm 50-100% hoặc thậm chí nhiều hơn.

Giá thuê kho cho sản phẩm ướp lạnh, đông lạnh dao động 45-90 USD một mét vuông; cho bảo quản dược phẩm là 45-160 USD một mét vuông. Giá thuê pallet rơi vào khoảng 0,7-1,3 USD một tấm mỗi ngày, Cushman & Wakefield cho biết, các doanh nghiệp trong ngành cạnh tranh trên nhiều tiêu chí gồm sức chứa kho bãi, số lượng tấm pallet, đội xe tải cải tiến và chuyên dụng, phạm vi nhiệt độ, mạng lưới kho bãi và vị trí.

“Do sự khan hiếm về từng loại kho lạnh chuyên biệt, nhu cầu có thể vượt cung, nên khả năng tăng giá sẽ cao hơn”, bà Trang nói. Theo bà, chi phí đầu tư vào trang thiết bị kho lạnh ngày càng tốn kém do chi phí lắp đặt vật liệu cách nhiệt và máy móc, nhưng giá thuê cao lại là động lực mạnh mẽ để các chủ đầu tư sẵn sàng xây dựng các dự án. Các nhà đầu tư và chủ tài sản cũng có thể cân nhắc phương án chuyển đổi kho thông thường thành kho lạnh để khai thác phần chênh lệch phí thuê.

Chuyên gia Cushman & Wakefield cũng dự báo có nhiều thương vụ M&A diễn ra, các nhà đầu tư tham gia thị trường ở giai đoạn đầu trước khi loại tài sản này trở nên phổ biến sẽ thu được lợi nhuận vốn cao hơn.

Dù vậy, chuỗi cung ứng lạnh Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thử thách để phát triển. Trong trung và dài hạn, phát triển cơ sở hạ tầng là chìa khóa để tăng nguồn cung chuỗi lạnh, bao gồm các trung tâm kho vận chuyên biệt, kết nối đa phương thức.

Bên cạnh đó, quy trình giao thương xuyên biên giới của Việt Nam gồm cả thời gian và chi phí vẫn còn cần cải tiến hơn. Chi phí giao dịch qua biên giới, bao gồm chi phí tuân thủ tài liệu thủ tục và chi phí xuất nhập khẩu vẫn đang kém cạnh tranh hơn so với hầu hết các nước trong khu vực.

Đức Minh